đương sự trong vụ án hình sự
Khi nghi phạm tự sát nhưng không chết, cơ quan điều tra sẽ khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội Giết người theo Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015. Hành vi của nghi phạm có sự chuẩn bị từ trước, ra tay rất quyết liệt, tàn nhẫn, thể hiện sự coi thường tính mạng con
Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp, giao nộp được cho tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho tòa án.
(HNMO) - Ngày 17-9, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội mở phiên tòa xét xử sơ thẩm 6 bị cáo trong vụ lừa chạy án cho nguyên Giám đốc Bệnh viện thành phố Thủ Đức Nguyễn Minh Quân. biết rõ mình không có khả năng giúp Nguyễn Minh Quân không bị xử lý hình sự, nhưng do cần
Việc hoàn lại tiền tạm ứng án phí sẽ do Cơ quan Thi hành án thực hiện. Phiên tòa xét xử phúc thẩm trong vụ án dân sự. Bước 4: Thông báo về việc kháng cáo và thụ lý việc kháng cáo của Tòa án. Khi hồ sơ vụ án và đơn kháng cáo đã được Ngân hàng gửi cho Tòa án cấp
Sau khi tòa tuyên án, một đương sự trong vụ án đã lao ra lan can định nhảy lầu tự tử nhưng được nhiều người ngăn cản kịp thời. Sau đó TAND cấp cao tại TP.HCM đã kháng nghị giám đốc thẩm và xét xử giám đốc thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm và phúc thẩm.
Tại hội nghị, các đồng chí trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã cho ý kiến vào Báo cáo tình hình thực hiện 16 dự án trọng tâm cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo theo Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh; Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư công 8 tháng
Điều này bảo đảm cả lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, đặc biệt trong các vụ án hình sự. Với cá nhân, yêu cầu xét xử nhanh chóng sẽ giúp họ tránh khỏi khoảng thời gian bị tạm giữ lâu dài trước khi đưa ra xử; giảm bớt những âu lo căng thẳng trong quá trình
Theo BLTTHS năm 2003 (Điều 59) thì đương sự có thể là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Trong khi đó, theo điểm g khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015 quy định đương sự chỉ gồm nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự.
cochintpima1985. Đương sự là cụm từ xuất hiện thường xuyên trong Bộ luật Tố tụng Dân sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự, Bộ luật Tố tụng Hành chính. Vậy, đương sự là gì?Câu hỏi Khi nhắc đến các vụ việc liên quan đến pháp luật, em thấy nhiều người dùng từ đương sự. Vậy, đương sự là gì?1. Đương sự là gì trong tố tụng dân sự?Hiện nay, khái niệm đương sự xuyên suốt các quy định trong Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Bộ luật này cũng đưa ra hai khái niệm về đương sự như sauĐiều 68. Đương sự trong vụ việc dân sự1. Đương sự trong vụ án dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên sự trong việc dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm người yêu cầu giải quyết việc dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên thế, có thể hiểu, đương sự là những người tham gia trong các vụ án dân sự/việc dân sự tại Tòa án nhân dân về các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình... Họ có thể là nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người yêu cầu giải quyết việc dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên hiểu chi tiết khái niệm đương sự, cần đi tìm hiểu các đối tượng nêu trên, họ là ai? Nguyên đơn trong tố tụng dân sự là gì?Theo Bộ luật Tố tụng Dân sự2. Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm thể hiểu đơn giản, nguyên đơn trong vụ án dân sự là người tham gia tố tụng với tư cách là người khởi kiện vụ án dân sự. Việc khởi kiện này có thể nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, hoặc bảo vệ lợi ích côhg cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực phụ trách hoặc...Việc tham gia tố tụng dân sự của nguyên đơn mang tính chủ động, là người trực tiếp yêu cầu giải quyết vụ án dân sự đó. Trong hoạt động tố tụng dân sự, hoạt động tố tụng của nguyên đơn có thể dẫn đến việc làm phát sinh, thay đổi hay đình chỉ tố tụng. Đương sự là gì trong tố tụng dân sư, hành chính...? Ảnh minh họa Người yêu cầu giải quyết việc dân sự là gì?5. Người yêu cầu giải quyết việc dân sự là người yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý làm căn cứ phát sinh quyền, nghĩa vụ về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của mình hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; yêu cầu Tòa án công nhận cho mình quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao hạn, hai bên vợ cồng yêu cầu Tòa án công nhận việc thuận tình ly cũng tham gia tốt tụng dân sự với tư cách là người chủ động yêu cầu. Tuy nhiên, không khởi kiện ai và cũng không cần bảo vệ lợi ích nào... Bị đơn trong tố tụng dân sự là gì?Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định về bị đơn trong tố tụng dân sự như sau3. Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc bị cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm vậy, bị đơn trong vụ án dân sự là người bị kiện. Họ tham gia tố tụng mang tính bắt buộc, bị động. Trong các vụ án dân sự, bị đơn bị tham gia với tư cách là người xâm phậm đến quyền, lợi ích của nguyên đơn hoặc tranh chấp với nguyên đơn có thể cung cấp tài liệu, chứng cứ; chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đồng thời, nếu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ thì bị đơn có quyền yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình. Nếu không thể tự mình thu thập chứng cứ, bị đơn có thể đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ việc hoặc đề nghị Tòa án yêu cầu đương sự khác xuất trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang giữ... Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là gì?Bộ luật Tố tụng Dân sự cũng định nghĩa về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự như sau4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự là người tuy không yêu cầu giải quyết việc dân sự nhưng việc giải quyết việc dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc đương sự trong việc dân sự đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên Đương sự trong tố tụng hành chínhTheo Bộ luật Tố tụng Hành chính7. Đương sự bao gồm người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên đó, người khởi kiện có thể là cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án hành chính. Việc khởi kiện xảy ra đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, danh sách cử tri trưng cầu ý dân...Và, người bị kiện là những người, tổ chức... có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri bị cá nhân, cư quan, tổ chức khởi kiện...Đương sự là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hành chính là cơ quan, tổ chức, cá nhân không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án hành chính có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của Đương sự trong tố tụng hình sựĐương sự trong vụ án hình sự gồm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân một vụ án hình sự, có rất nhiều vấn đề liên quan, kể cả liên quan đến các yếu tố dân việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự và vụ án hình sự liên quan mật thiết đến nhau thì việc cùng giải quyết có thể đáp ứng được tính chính xác, khách quan, toàn diện. Vì thế, để giải quyết chung hai khía cạnh dân sự và hình sự trong một vụ án hình sự thì đòi hỏi các bên phải tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình vậy, một trong những nguyên tắc quan trọng của Bộ luật Tố tụng Hình sự là giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình đây là giải đáp thắc mắc đương sự là gì? Nếu bạn còn có thêm vướng mắc, có thể gửi câu hỏi cho chúng tôi để được hỗ trợ.
Đương sự trong vụ án và việc dân sự là vấn đề luôn được nhiều người quan tâm trên thực tế; ngay cả sự phân biệt này vẫn còn có sự nhầm lẫn trong chính các cơ quan tư pháp. Bởi vì nếu xác định phạm vi đương sự hẹp sẽ dẫn đến việc “bỏ lọt” đương sự; và có người vốn là đương sự; nhưng lại không được giải quyết đúng về quyền và nghĩa vụ. Ngược lại, nếu xác định phạm vi đương sự rộng hơn so với khách quan thì sẽ có những người vốn không phải đương sự mà vẫn được hưởng quyền; hoặc có nghĩa vụ của đương sự. Tất cả trưởng hợp xác định không đúng tư cách chủ thể đương sự đều có thể không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp trong tố tụng. Trong bài viết này chúng tôi Luật sư X xin đề cập đến một số lưu ý; bình luận trong việc xác định tư cách đương sự trong vụ án và việc dân sự. Căn cứ pháp lí Bộ luật tố tụng dân sự 2015 Đương sự trong vụ án và việc dân sự là gì? Khác biệt vụ án và việc dân sự Đương sự trong vụ án dân sự Khoản 1 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định “Đương sự trong vụ án dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”. Theo đó, nguyên đơn là người khởi kiện; cá nhân yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích của người đó bị xâm phạm. Nguyên đơn còn là các cơ quan, tổ chức yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng; lợi ích Nhà nước bị xâm phạm do chính cơ quan đó quản lí. Đương sự trong vụ án và việc dân sự Bị đơn là người được giả thiết; cho rằng đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp; hoặc tranh chấp với nguyên đơn. Và bị nguyên đơn khởi kiện; bị các chủ thể theo quy định của pháp luật khởi kiện thay nguyên đơn. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là người không khởi và cũng không bị kiện nhưng lại liên quan vụ án. Gồm hai loại; Không có yêu cầu độc lập, tham gia về phía nguyên hoặc bị đơn; Có yêu cầu độc lập. Ví dụ Anh A và chị B là vợ chồng, có con là cháu C 10 tuổi. Anh A khởi kiện chị B yêu cầu ly hôn, chia tài sản; giải quyết vấn đề nuôi con. Trường hợp này cháu C không khởi nhiên trong nội dung khởi kiện của anh A có bao gồm vấn đề giải quyết việc nuôi con sau ly hôn. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của cháu C nên Tòa án phải xác định cháu C là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Đương sự trong việc dân sự Người yêu cầu giải quyết việc dân sự là người yêu cầu Tòa án công nhận; hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý làm căn cứ phát sinh quyền, nghĩa vụ; hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; yêu cầu Tòa án công nhận cho mình quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Đương sự trong vụ án và việc dân sự Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự là người tuy không yêu cầu giải quyết; nhưng việc giải quyết việc dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị; hoặc đương sự trong việc dân sự đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào. Trường hợp giải quyết việc dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó; mà không ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào. Phân biệt đương sự trong vụ án và việc dân sự Trong nhiều trường hợp người ta có thể phải xác định xem một vụ việc dân sự là vụ án dân sự hay việc dân sự; theo đó là xác định một yêu cầu là yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; hay yêu cầu giải quyết việc dân sự của người yêu cầu. Để xác định được chính xác tư cách đương sự trong những tình huống như vậy; thì cần xác định được xem vụ việc đó là vụ án hay việc dân sự Trong Bộ luật Tố tụng dân sự không quy định giải thích cụ thể vụ án và việc dân sự là gì?. Tuy nhiên dưới góc độ khoa học pháp lý; có thể nói là vụ án là vụ việc mà trong đó có tranh chấp giữa người yêu cầu; và đối tượng được yêu cầu. Còn việc dân sự thì không có tranh chấp. Tuy nhiên thực tế không đơn giản như vậy. Dẫn chứng cụ thể Ví dụ Ông A bỏ đi biệt tích trong 10 năm liền; gia đình không có thông tin gì mặc dù đã áp dụng nhiều biện pháp tìm kiếm. Do đó con trai của ông A là anh B làm đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố ông A đã chết; thực hiện chia di sản thừa kế; nhưng con gái của ông A là chị C lại không đồng ý. Vậy thì trường hợp này là vụ án dân sự hay việc dân sự. Nhiều người nói rằng đây là vụ án dân sự do có tranh chấp giữa hai bên là anh B và chị C thì có đúng hay không?. Theo quan điểm của chúng tôi; đây không phải vụ án dân sự mà là việc dân sự. Bởi vì anh B làm đơn yêu cầu chỉ một nội dung là tuyên bố ông A đã chết; yêu cầu đó không hề tác động gì đến chị C. Nếu là vụ án dân sự thì phải có nguyên đơn tức là người khởi kiện và bị đơn là người bị kiện. Chị C phản đối yêu cầu của anh B thì chỉ là ý kiến từ một phía là chị C mà thôi, anh B cũng không hề tham gia vào tranh chấp với chị C. Tóm lại để trở thành vụ án dân sự thì phải xuất hiện một bên yêu cầu một bên khác thực hiện một việc gì đó để bảo vệ quyền và lợi ích của bên có yêu cầu. Cách xác định đúng tư cách đương sự trong vụ án và việc dân sự Khi xác định được đâu là vụ án đâu là việc thì có thể xác định được tư cách đương sự trong vụ án và việc dân sự, xác định được nguyên đơn bị đơn và người yêu cầu. Một ví dụ khác Anh A có một người con trai là cháu B; cháu B năm nay 10 tuổi và sống cùng anh A từ khi sinh ra. Đến một ngày; anh C là hàng xóm của anh A có nói rằng anh C mới chính là bố đẻ cháu B. Anh C yêu cầu anh A trả lại con cho mình; nhưng anh A không chịu vì cho rằng anh A nuôi dưỡng cháu B từ nhỏ nên không cho anh C nhận lại con. Sau đó anh C khởi kiện anh A ra Tòa để yêu cầu xác định cháu B là con đẻ và buộc anh A chuyển quyền nuôi dưỡng cháu B lại cho mình. Trường hợp này là vụ án dân sự; bởi vì nó có yếu tố tranh chấp giữa anh A và anh C. Anh C đòi quyền nuôi con từ anh A. Nếu như anh C chỉ yêu cầu Tòa án xác định con; thì lại chỉ là việc dân sự vì không có tranh chấp. Do vậy cần xác định đúng bản chất vụ việc có tranh chấp; hay không có tranh chấp để thấy rõ là vụ án; hay vụ việc dân sự; xác định đúng tư cách đương sự. Liên hệ Luật sư X Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của chúng tôi về vấn đề “Đương sự trong vụ án và việc dân sự”. Hy vọng bài viết hữu ích đối với bạn đọc. Để sử dụng dịch vụ của chúng tôi mời quý khách hàng liên hệ đến hotline để được tiếp hệ hotline Câu hỏi thường gặp Yêu cầu độc lập là gì?Trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn thì họ có quyền yêu cầu độc lập khi có các điều kiện sau đâya Việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ;b Yêu cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án đang được giải quyết;c Yêu cầu độc lập của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Yêu cầu phản tố là gì?Hay còn gọi là kiện ngược lại của bị đơn. Bị đơn phải đưa ra yêu cầu quan hệ khác với nguyên đơn; có liên quan đến vụ án được giải quyết với nguyên đơn. Để vụ án có thể được nhanh chóng thuận lợi dễ dứt điểm ba loại yêu cầu phản tố– Yêu cầu phản tố dẫn đến bù trừ nghĩa vụ – Dẫn đến loại trừ nghĩa vụ – Yêu cầu phản tố có liên quan Để biết thêm thông tin chi tiết vui lòng gọi cho Luật sư X. Con gây thiệt hại thì ai là bị đơn? Việc này thì chúng ta cần nên xem xét người con bao nhiêu tuổi; nếu người con dưới 15 tuổi thì cha mẹ là người đại diện cho con tức là bị đơn. Còn nếu con bằng; lớn hơn 15 và nhỏ hơn 18 tuổi thì cha mẹ là người có quyền lợi liên quan vì người con là bị đơn; phải tự mình bồi thường thiệt hại nếu có thu nhập do lao động; còn thiếu thì cha mẹ sẽ bù. Ngoài ra trên 18 tuổi thì tự chịu trách nhiệm với hành vi của mình gây ra.
Luật Bạch Long đưa ra tư vấn pháp lý về những điểm mới về đương sự trong vụ án hình sự theo BLTTHS năm 2015. 1. Cơ sở pháp lý – Bộ luật Tố tụng hình sự 19/2003/QH11 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26/11/2003; – Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27/11/2015. 2. Luật sư tư vấn Về thuật ngữ Theo BLTTHS năm 2003 Điều 59 thì đương sự có thể là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Trong khi đó, theo điểm g khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015 quy định đương sự chỉ gồm nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự. Về nguyên đơn dân sự Điều 63 Kế thừa quy định của BLTTHS năm 2003, khoản 1 Điều 63 BLTTHS năm 2015 định nghĩa “Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại”. Theo đó, nguyên đơn dân sự có thể là cá nhân bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại. Tuy cùng là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra, nhưng giữa nguyên đơn dân sự và bị hại lại có những điểm khác nhau như sau + Nguyên đơn dân sự chỉ là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra, còn bị hại là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. + Cùng bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra nhưng khác với bị hại, thiệt hại của nguyên đơn dân sự không phải là đối tượng tác động của tội phạm. + Cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra phải có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại, thì mới được cơ quan tiến hành tố tụng xác định là nguyên đơn dân sự, còn đối với bị hại, dù có hay không có đơn yêu cầu, họ vẫn được cơ quan tiến hành tố tụng xác định là bị hại. So với Điều 52 BLTTHS năm 2003, Điều 63 BLTTHS năm 2015 đã bổ sung cho nguyên đơn dân sự hoặc đại diện của họ một số quyền nhằm để họ bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của mình – Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 63 BLTTHS 2015; – Đưa ra chứng cứ; – Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; – Được thông báo kết quả giải quyết vụ án; – Yêu cầu giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật; – Đề nghị thay đổi người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, người định giá tài sản, người dịch thuật; – Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi người tham gia phiên tòa; xem biên bản phiên tòa; – Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; – Các quyền khác theo quy định của pháp luật. Về bị đơn dân sự Điều 64 Theo quy định tại khoản 1 Điều 64 BLTTHS năm 2015 thì bị đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Bị đơn dân sự không phải là người gây ra thiệt hại. Họ có thể là cha mẹ của bị can, bị cáo chưa thành niên; pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do bị can, bị cáo gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; cơ quan, tổ chức phải bồi thường những thiệt hại do hành vi phạm tội của bị can, bị cáo là cán bộ nhân viên của cơ quan, tổ chức mình gây ra… So với Điều 53 BLTTHS năm 2003, Điều 64 BLTTHS năm 2015 đã bổ sung cho bị đơn dân sự hoặc đại diện của họ một số quyền, nhằm để họ bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình – Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 64 BLTTHS 2015; – Đưa ra chứng cứ; – Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; – Được thông báo kết quả giải quyết vụ án; – Yêu cầu giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật; – Đề nghị thay đổi người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, người định giá tài sản, người dịch thuật; – Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi người tham gia phiên tòa; xem biên bản phiên tòa; – Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; – Các quyền khác theo quy định của pháp luật. Về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Điều 65 BLTTHS năm 2003 không đưa ra khái niệm về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Nay, BLTTHS năm 2015 đã định nghĩa về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án tại khoản 1 Điều 65 Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự. Việc quy định rõ về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đã khắc phục được những vướng mắc trong việc xác định tư cách tham gia tố tụng. So với Điều 54 BLTTHS năm 2003, Điều 65 BLTTHS năm 2015 đã bổ sung cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc đại diện của họ một số quyền – Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 65 BLTTHS năm 2015; – Đưa ra chứng cứ; – Yêu cầu giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật; – đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi người tham gia phiên tòa; xem biên bản phiên tòa; – Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; – Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; – Các quyền khác theo quy định của pháp luật. Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp Luật sư Long Xuân Thi +84 – 097866929 Email Luatbachlong
Trang chủ / Khác / Luật sư Nguyễn Đức Hoàng trả lời đương sự trong vụ án hình sự gồm những ai?Luật sư Nguyễn Đức Hoàng trả lời đương sự trong vụ án hình sự gồm những ai?Đương sự trong vụ án hình sự bao gồm những chủ thể nào?Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự là ai?Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bao gồm những ai?Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong vụ án hình sựQuyền của nguyên đơn dân sựQuyền của bị đơn dân sựQuyền của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quanKính chào Luật sư tố tụng, tôi có vấn đề mong được giải đáp như sauTôi đang theo dõi vụ kiện khá nổi tiếng thông qua các phương tiện truyền thông. Tuy nhiên tôi chưa xác định rõ được đương sự trong vụ án hình sự gồm những ai? Họ có những quyền lợi cũng như nghĩa vụ như thế nào trong quá trình tố tụng? Kính mong các luật sư có thể giải thích chân thành cảm ơn!Đương sự trong vụ án hình sự là ai?Xem thêm>> Làm sao xác định vô ý phạm tội?>> Tìm hiểu về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp>> Làm sao để biết hành vi phạm tội có phải tội phạm?Trả lờiPhan Law Vietnam gửi lời chào đến bạn, cảm ơn bạn đã có sự quan tâm và gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Đối với nội dung thắc mắc của bạn, chúng tôi xin trả lời như sauTheo định nghĩa tại điểm g khoản 1 Điều 4 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 “Đương sự gồm nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự.”. Pháp luật định nghĩa rất đầy đủ về các chủ thể được gọi chung là đương sự trong vụ án hình đơn dân sự, bị đơn dân sự là ai?Khoản 1 Điều 63 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 định nghĩa “Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại.”Trong khi đó, bị đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bao gồm những ai?Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 cũng định nghĩa về người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan tại khoản 1 Điều 65 “là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự.”Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong vụ án hình sựCác đương sự đều phải thực hiện đầy đủ 03 nghĩa vụ chính khi tham gia vụ án hình nhất, có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố hai, trình bày trung thực những tình tiết liên quan đến việc bồi thường thiệt hại; đến quyền và nghĩa vụ của ba, Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố của nguyên đơn dân sựTheo quy định tại khoản 2 Điều 63 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015, nguyên đơn dân sự có các quyền sau“a Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;b Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;c Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;d Được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án;đ Yêu cầu giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật;e Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;g Đề nghị mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường;h Tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi người tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn; xem biên bản phiên tòa;i Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;k Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;l Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần bồi thường thiệt hại;m Các quyền khác theo quy định của pháp luật.”Đương sự trong vụ án hình sự có quyền gì?Quyền của bị đơn dân sựTương tự nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự cũng có các quyền theo quy định tại khoản 2 Điều 65 Bộ Luật Tố tụng dân sự trong đó có điểm khác biệt như “Chấp nhận hoặc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn dân sự.”Quyền của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quanTheo quy định tại khoản 2 Điều 65 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015“Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện của họ có quyềna Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;b Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;c Yêu cầu giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật;d Tham gia phiên tòa; phát biểu ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi những người tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa;đ Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;e Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;g Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình;h Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;i Các quyền khác theo quy định của pháp luật.”Trên đây là nội dung tư vấn của Luật sư Hoàng về việc người bị tạm giữ có các quyền nào? Đừng ngần ngại mà hãy chủ động liên hệ và trao đổi cùng luật sư để được tư vấn chuyên sâu, đưa ra phương án giải quyết tối ưu những vướng mắc pháp lý mà Quý vị đang gặp có thể tìm hiểu kỹ hơn về các vấn đề này, bạn có thể trực tiếp trao đổi với Luật sư Hoàng thông qua các phương thức liên hệ dưới [email protected]Ngoài ra, bạn có thể gặp trực tiếp Luật sư Nguyễn Đức Hoàng tại Văn phòng Luật sư tố tụngĐịa chỉ 38 Phan Khiêm Ích, Phường Tân Phong, Quận 7, TP. Hồ Chí MinhGiờ làm việc Thứ 2 – thứ 6 8 giờ – 17 giờ 30
Trang chủ » Một số điểm mới của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về bị hại, đương sự trong vụ án hình sự TÓM TẮT1. Một số điểm mới về bị hại trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 20152. Một số điểm mới về đương sự trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định khái niệm đương sự, kế thừa, chỉnh lý, bổ sung định nghĩa về các chủ thể là đương sự trong vụ án hình Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định bổ sung một số quyền mới cho đương sự trong vụ án hình Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chỉnh lý phân định cụ thể các nghĩa vụ của đương sự trong vụ án hình sự3. Một số yêu cầu trong thực tiễn áp dụng một số điểm mới về bị hại, đương sự trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015CHÚ THÍCH Một số điểm mới của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về bị hại, đương sự trong vụ án hình sự Bị hại, các đương sự trong vụ án hình sự là những chủ thể tham gia tố tụng hình sự, tính chất dân sự trong các yêu cầu của họ tạo nên tính đặc thù về địa vị pháp lý khi họ tham gia tố tụng. Điều này đòi hỏi việc hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của bị hại, các đương sự trong Bộ luật Tố tụng hình sự BLTTHS, tạo cơ sở pháp lý để giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự là cần thiết. BLTTHS năm 2015 đã có sự chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung quan trọng các quy định về bị hại, đương sự trong vụ án hình sự với tinh thần mở rộng và cụ thể hóa quyền, nghĩa vụ, bảo đảm sự bình đẳng của bị hại, đương sự. Trong phạm vi bài viết, chúng tôi phân tích những điểm mới trong quy định của BLTTHS năm 2015 về người bị hại, đương sự và một số yêu cầu bảo đảm tính khả thi trong thực tế áp dụng. Xem thêm bài viết về “Bị hại“, “Đương sự“ Bị hại là gì? Quy định về bị hại trong tố tụng hình sự? – ThS. LS. Phạm Quang Thanh Quyền riêng tư của người bị hại dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự – ThS. Nguyễn Thị Lộc Người bảo vệ quyền, lợi ích của bị hại, đương sự trong tố tụng hình sự – ThS. LS. Phạm Quang Thanh Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại – TS. Võ Thị Kim Oanh & ThS. Đinh Văn Đoàn Bình luận án lệ 12/2017/AL Xác định trường hợp đương sự được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất sau khi Tòa án đã hoãn phiên tòa – ThS. Huỳnh Quang Thuận TỪ KHÓA bị hại, đương sự, vụ án hình sự, Bị hại, đương sự trong vụ án hình sự là những chủ thể tham gia tố tụng hình sự TTHS có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án, vai trò của họ khi tham gia TTHS góp phần quan trọng trong việc làm sáng tỏ nội dung, tình tiết và tính chất của vụ án, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Bộ luật Tố tụng hình sự BLTTHS năm 2015 có nhiều điểm mới về bị hại, đương sự thể hiện tinh thần, mục tiêu của cải cách tư pháp là bảo vệ quyền con người, tăng cường tranh tụng. Đồng thời, nhưng điểm mới này cũng đáp ứng nhu cầu hoàn thiện cơ sở pháp lý nhằm giải quyết vấn đề dân sự phát sinh trong vụ án hình sự, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của bị hại, đương sự. 1. Một số điểm mới về bị hại trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 So với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 có sửa đổi, bổ sung các quy định về bị hại, đương sự. Qua tìm hiểu, nghiên cứu, chúng tôi phân tích một số điểm mới sau đây Về khái niệm bị hại BLTTHS năm 2015 định danh lại chủ thể là “bị hại” chứ không phải là “người bị hại” như trong BLTTHS năm 2003 và khái niệm mở rộng phạm vi chủ thể là bị hại. Điều 51 BLTTHS năm 2003 định danh chủ thể bị hành vi phạm tội trực tiếp gây thiệt hại là “người bị hại” và định nghĩa “người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”.Với quy định này cùng với các văn bản hướng dẫn một số vụ án cụ thể của Tòa án nhân dân tối cao dẫn đến việc nhận thức và áp dụng quy định về người bị hại không thống nhất, ngay cả việc xác định chủ thể là người bị hại cũng có những quan điểm khác nhau. Các quan điểm truyền thống cho rằng chủ thể là người bị hại trong TTHS chỉ là cá nhân không thể là pháp nhân, càng không thể là tổ chức không có tư cách pháp nhân. Nếu tổ chức bị tội phạm gây ra thiệt hại thì họ là nguyên đơn dân sự.[1] Quan điểm này dựa trên cơ sở quy định “người bị hại là người…”, từ “người” có hàm ý chỉ cá nhân, nó phù hợp với thiệt hại mang tính đặc trưng gắn với một cá nhân con người cụ thể là “thể chất”, “tinh thần”. Quan điểm khác cho rằng, người bị hại có thể là cá nhân, cũng có thể là tổ chức nếu thiệt hại của tổ chức là thiệt hại do hành vi phạm tội trực tiếp gây ra, còn thiệt hại gián tiếp thì tổ chức sẽ có tư cách nguyên đơn dân sự nếu nộp đơn yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng bảo vệ quyền lợi của mình.[2] Những quan điểm khác nhau như vậy dẫn đến quyền lợi của người bị hại trong những vụ án hình sự không được bảo đảm một cách triệt để, đồng thời khó khăn đối với chính người bị hại trong việc thực hiện quyền tố tụng của mình. Khắc phục những hạn chế đó, BLTTHS năm 2015 không định danh chủ thể là “người bị hại” mà định danh chủ thể bị thiệt hại do hành vi của người phạm tội là “bị hại”, đồng thời đưa ra định nghĩa về bị hại như sau “Bị hại gồm cá nhân bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản và cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”.[3] So với quy định về người bị hại trong trong BLTTHS năm 2003, định nghĩa trên xác định cụ thể, rõ ràng những chủ thể là bị hại trong vụ án hình sự, mở rộng phạm vi chủ thể bị hại không chỉ là cá nhân mà còn bao gồm cả cơ quan, tổ chức có hoặc không có tư cách pháp nhân. Điều này bảo đảm sự thống nhất trong việc xác định tư cách bị hại cũng như bảo đảm quyền lợi chính đáng của bị hại trong quá trình áp dụng pháp luật giải quyết vụ án hình sự. Đặc biệt, khi tổ chức được xác định là bị hại thì tổ chức đó chủ động tham gia vào tố tụng để cung cấp chứng cứ và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ mà họ không cần phải có đơn yêu cầu. Khi tổ chức được coi là bị hại thì đương nhiên họ có quyền kháng cáo toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. Như vậy thì việc bảo vệ quyền lợi của tổ chức bị hành vi phạm tội gây thiệt hại mới được công bằng, bình đẳng với các chủ thể khác cũng như bảo đảm tính hiệu quả, toàn diện khi giải quyết vụ án hình sự. BLTTHS năm 2015 quy định một số quyền mới của bị hại như Quyền đưa ra chứng cứ của bị hại Bên cạnh quyền đưa ra tài liệu, đồ vật và yêu cầu như trước đây, BLTTHS năm 2015 bổ sung thêm “Bị hại có quyền đưa ra chứng cứ”. Quy định này phù hợp với quy định mới về định nghĩa chứng cứ,[4] đồng thời mở rộng quyền của bị hại trong quá trình chứng minh người phạm tội, chứng minh hành vi của người phạm tội, chứng minh những thiệt hại của mình là do hành vi phạm tội gây ra. Thậm chí bị hại có thể đưa ra các chứng cứ để chứng minh cả những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án, đặc biệt là có ý nghĩa trong việc giải quyết quyền lợi của mình như việc giải quyết bồi thường thiệt hại. Quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và những người tham gia phiên tòaCó thể nói đây là quyền rất đặc biệt đối với bị hại. Tước đây, bị hại chỉ tham gia phiên tòa một cách thụ động thể hiện qua quyền được trình bày ý kiến tại phiên tòa và trong thực tế xét xử thì bị hại cũng chỉ trình bày ý kiến khi chủ tọa phiên tòa hỏi. Chủ tọa phiên tòa cũng chủ yếu hỏi về phần thiệt hại và yêu cầu bị hại trình bày ý kiến về mức bồi thường. Với quy định về quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và những người tham gia phiên tòa, BLTTHS năm 2015 đã trao quyền chủ động cho bị hại khi tham gia phiên tòa và nâng cao vị thế tố tụng của bị hại trong quá trình tham gia tố tụng nói chung và tham gia phiên tòa nói riêng. Đồng thời, thông qua quyền này, bị hại có thể truy vấn những vấn đề mà bị hại đặt ra hoặc những nội dung, tình tiết của vụ án mà bị hại thấy rằng việc chứng minh còn chưa khách quan, toàn diện ảnh hưởng đến lợi ích của bị hại. Quyền được tham gia một số hoạt động tố tụng Đây là quyền mới được bổ sung đối với bị hại, thể hiện vị trí và vai trò của bị hại khi họ tham gia tố tụng. Những quy định về quyền của người bị hại trong BLTTHS năm 2003 phản ánh vai trò của bị hại chỉ thực sự được thể hiện trong giai đoạn xét xử, bởi khi đó, bị hại mới thực hiện yêu cầu Tòa án giải quyết quyền lợi của mình và thực chất vai trò này cũng tương đối mờ nhạt. Với quyền được tham gia một số hoạt động tố tụng hình sự thì vai trò của bị hại đã được coi trọng hơn. Theo quy định trên, họ có thể được tham gia vào một số hoạt động điều tra của cơ quan điều tra trước đây bị hại chỉ có quyền được thông báo kết quả điều tra, bị hại cũng có thể tham gia vào hoạt động tố tụng của Tòa án như đề nghị Chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và những người tham gia phiên tòa như chúng tôi đã phân tích ở phần trên. Trên cơ sở quyền được tham gia một số hoạt động tố tụng, bị hại chủ động hơn trong việc bảo vệ quyền lợi của mình như họ có được thông tin từ cơ quan điều tra mà không phải chờ đến khi kết thúc điều tra. Họ được chủ động đưa ra câu hỏi và yêu cầu chủ tọa phiên tòa hỏi chứ không phải chờ đến khi chủ tọa đề nghị cho biết ý kiến. Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thức rằng việc tham gia một số hoạt động tố tụng của bị hại phải tuân thủ những điều kiện nhất định, chẳng hạn như việc tham gia đó không ảnh hưởng đến tính khách quan, không gây khó khăn và cản trở đến hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân khi bị đe dọạ Bị hại trong TTHS là chủ thể tham gia tố tụng có địa vị pháp lý độc lập, là một bên có quyền cáo buộc đối với bị can, bị cáo. Quyền cáo buộc của họ mang tính chất truy cứu trách nhiệm dân sự trong trường hợp họ yêu cầu bồi thường thiệt hại, bồi hoàn tài sản hoặc những yêu cầu dân sự khác, thậm chí mang tính chất truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp bị hại thực hiện quyền buộc tội trong vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại. Chính vì tính chất đối lập như vậy đối với bị can, bị cáo, bị hại có nguy cơ bị đe dọa hoặc bị trực tiếp xâm hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản trong quá trình tham gia TTHS. Để bảo đảm an toàn cho bị hại, BLTTHS năm 2015 quy định thêm quyền rất thiết thực cho bị hại là họ được yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ cho họ và người thân của họ khi họ nhận thấy thực sự có nguy cơ bị xâm hại hoặc có căn cứ cụ thể về những hành vi đe dọa họ nhằm gây sức ép hoặc cản trở quyền tố tụng của họ. Việc BLTTHS năm 2015 quy định quyền này có ý nghĩa bảo đảm cho bị hại yên tâm thực hiện các quyền khác khi họ tham gia tố tụng đồng thời đòi hỏi trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc bảo vệ sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tự do, tài sản của bị hại trong suốt quá trình tố tụng. Bên cạnh những điểm mới bổ sung về quyền của bị hại, BLTTHS năm 2015 tiếp tục kế thừa và chỉnh lý một số quyền cơ bản khác để bảo vệ quyền lợi chính đáng của bị hại và phù hợp với yêu cầu thực tế hiện nay. Chẳng hạn như quyền đưa ra mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường, được chỉnh lý thành quyền đề nghị hình phạt, đưa ra mức bồi thường, biện pháp bảo đảm bồi thường;[5] quyền yêu cầu khởi tố của bị hại. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2015 không quy định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại đối với tội xâm phạm quyền tác giả như BLTTHS năm 2003.[6] Ngoài ra, BLTTHS năm 2015 còn sửa đổi quy định về nghĩa vụ của bị hại theo hướng mở rộng và gắn với các biện pháp cưỡng chế nếu vi phạm nghĩa vụ. Ngoài những điểm mới về quyền của bị hại, BLTTHS năm 2015 cũng sửa đổi một số nghĩa vụ của bị hại theo hướng mở rộng trách nhiệm của bị hại trong quá trình tham gia tố tụng, đồng thời gắn liền với đó là các biện pháp cưỡng chế để bảo đảm nghĩa vụ của bị hại phải được thực thi trên thực tế. Nghĩa vụ phải chấp hành các quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.[7] Nghĩa vụ này đòi hỏi bị hại phải có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thể hiện trong các quyết định tố tụng. Theo quy định tại khoản 4 Điều 51 BLTTHS năm 2003, bị hại không có nghĩa vụ này, họ chỉ có nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng mà thôi. Tuy nhiên, với quy định hiện nay, bị hại phải có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trường hợp cố ý vắng mặt hoặc có hành vi gây khó khăn, cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải. Bị hại nếu từ chối hoặc trốn tránh việc khai báo, giám định, cung cấp tài liệu mà không có lý do chính đáng thì có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự. Xem thêm bài viết về “Vụ án hình sự” Quy định về Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự – ThS. LS. Phạm Quang Thanh Quy định về Người chứng kiến trong vụ án hình sự – ThS. LS. Phạm Quang Thanh Quy định về Bị đơn dân sự trong vụ án hình sự – ThS. LS. Phạm Quang Thanh Quy định về Nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự – ThS. LS. Phạm Quang Thanh Biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về các tội phạm tham nhũng – TS. Lê Huỳnh Tấn Duy 2. Một số điểm mới về đương sự trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định khái niệm đương sự, kế thừa, chỉnh lý, bổ sung định nghĩa về các chủ thể là đương sự trong vụ án hình sự BLTTHS năm 2015 lần đầu tiên đưa ra khái niệm về đương sự trong vụ án hình sự “Đương sự bao gồm nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự”.[8] Với quy định này, phạm vi đương sự trong vụ án hình sự không bao gồm cả bị hại như quy định trong BLTTHS năm 2003. Mặc dù trong BLTTHS năm 2003 không có điều khoản quy định đương sự trong vụ án bao gồm những chủ thể nào, nhưng thông qua quy định về người bảo vệ quyền lợi của đương sự thì mọi người đều hiểu đương sự bao gồm người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án.[9] Điểm mới này cho thấy, BLTTHS năm 2015 đã xác định đúng bản chất của đương sự, họ là cá nhân, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự; họ nhưng họ có quyền tự định đoạt sự tham gia tố tụng hình sự của họ thời điểm và mức độ tham gia thông qua đơn yêu cầu của họ gửi đến cơ quan tiến hành tố tụng. Còn bị hại là cá nhân, tổ chức bị hành vi phạm tội trực tiếp gây thiệt hại, về mặt nguyên tắc, họ tham gia tố tụng hình sự từ khi khởi tố vụ án hình sự phải được các cơ quan tiến hành tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp không phụ thuộc vào việc họ có đơn yêu cầu hay không. Với tư cách này, họ không tương đồng với nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, lợi ích liên quan. Tinh thần này một lần nữa được thể hiện trong quy định về người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự tại Điều 84 BLTTHS năm 2015. Nội dung của điều luật này luôn xác định bị hại và đương sự là hai loại chủ thể khác nhau. Chúng tôi cho rằng khái niệm đương sự trong vụ án hình sự là hợp lý, thể hiện đúng vị trí, vai trò của đương sự. Mặt khác, quy định về đương sự như BLTTHS năm 2015 tương thích với định nghĩa về đương sự trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.[10] Cùng với việc đưa ra khái niệm về đương sự, BLTTHS năm 2015 tiếp tục kế thừa, chỉnh lý và bổ sung định nghĩa về nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Theo đó, định nghĩa về nguyên đơn dân sự được giữ nguyên,[11] chỉnh lý định nghĩa về bị đơn dân sự trong vụ án hình sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. So với định nghĩa bị đơn dân sự quy định tại Điều 53 BLTTHS năm 2003 thì quy định tương ứng trong BLTTHS năm 2015 có sự lược bỏ cụm từ “đối với thiệt hại do tội phạm gây ra”,nhưng không ảnh hưởng đến tinh thần của điều luật. Đặc biệt là BLTTHS năm 2015 đã bổ sung định nghĩa về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự. Chúng tôi cho rằng đây là sự bổ sung quan trọng, bởi vì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự là chủ thể tham gia tố tụng, họ có thể chủ động tham gia tố tụng khi tự họ nộp đơn yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Họ cũng có thể phải tham gia tố tụng để thực hiện những nghĩa vụ nhất định khi Tòa án đưa họ vào tham gia với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. BLTTHS năm 2003 không định nghĩa về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà chỉ quy định về quyền và nghĩa vụ cụ thể của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Vì vậy, thực tế có một số cách hiểu khác nhau về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự. Có quan điểm cho rằng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là người không tham gia vào việc thực hiện tội phạm hoặc tham gia vào việc thực hiện tội phạm mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng vẫn phải đưa vào tham gia tố tụng để xử lý theo pháp luật về quyền và nghĩa vụ về tài sản của họ có liên quan đến tội phạm.[12] Quan điểm này nhìn nhận người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự dưới góc độ lợi ích vật chất, yếu tố liên quan ở người có quyền, nghĩa vụ liên quan là tài sản. Có quan điểm khác xem xét dưới góc độ lợi ích bị tác động bởi bản án, quyết định của Tòa án cho rằng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là người có quyền lợi, nghĩa vụ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi quyết định của Tòa án và nên hiểu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án một cách tách biệt trong những trường hợp cụ thể, có trường hợp là người có quyền lợi liên quan đến vụ án, có trường hợp họ là người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án và có trường hợp họ là người vừa có quyền lợi vừa có nghĩa vụ liên quan đến vụ án.[13] Điều 65 BLTTHS năm 2015 bổ sung định nghĩa về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự”. Sự bổ sung quan trọng này sẽ chấm dứt những cách nhìn nhận khác nhau về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trên cơ sở kết hợp định nghĩa trên với các quy định về quyền và nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, vai trò và mục đích tham gia tố tụng, có thể hiểu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án một cách thống nhất là chủ thể không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, không phải là nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự nhưng việc giải quyết vụ án hình sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ và được Tòa án chấp nhận xác định họ tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Có thể nói việc quy định khái niệm đương sự và sự kế thừa, chỉnh lý, bổ sung các định nghĩa về nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan của BLTTHS năm 2015 đã tạo nên sự thống nhất trong xác định phạm vi cũng như vị trí và vai trò chủ thể là đương sự trong vụ án hình sự. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định bổ sung một số quyền mới cho đương sự trong vụ án hình sự – Quyền yêu cầu giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật[14] Chúng tôi cho rằng, đây là sự bổ sung cần thiết để bảo vệ quyền lợi của đương sự trong vụ án hình sự. Trước đây, có lẽ với quan điểm cho rằng trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản là trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng khi thấy cần thiết trong quá trình chứng minh vụ án. Nguyên đơn dân sự chỉ là chủ thể tham gia và yêu cầu bồi thường của họ sẽ được giải quyết trên những căn cứ mà các cơ quan tiến hành tố tụng đã chứng minh. Bị đơn dân sự bảo vệ quyền lợi của mình theo nội dung đơn kiện của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng trong phạm vi mà Tòa án yêu cầu, vì vậy không quy định quyền yêu cầu giám định, định giá tài sản cho đương sự. Tuy nhiên, thực tiễn tố tụng cho thấy, việc trưng cầu giám định của các cơ quan tiến hành tố tụng chủ yếu để chứng minh tội phạm, xác định cấu thành tội phạm và giải quyết bồi thường cho bị hại. Điều này dẫn đến kết luận giám định, định giá tài sản không đủ cơ sở để chứng minh thiệt hại của nguyên đơn, nguyên đơn chủ động gửi đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại nhưng bị động về chứng minh thiệt hại. Với sự bổ sung thêm quyền này, nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự sẽ chủ động hơn trong quá trình chứng minh thiệt hại của mình để đưa ra mức yêu cầu được bồi thường hợp lý nhất. Ngược lại, bị đơn dân sự cũng chủ động để có căn cứ bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn. Còn người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có cơ sở để yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng bảo vệ quyền lợi của mình. Mặt khác, việc BLTTHS năm 2015 quy định cho cả nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền này thể hiện sự thừa nhận tính chất bình đẳng trong quan hệ của họ mặc dù quan hệ đó được nảy sinh trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Điều này khẳng định rằng tính chất dân sự trong quan hệ của họ được Nhà nước tôn trọng và được thể chế bằng một quyền tố tụng cụ thể. – Quyền được tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình[15] Trong BLTTHS năm 2003, các điều khoản quy định về quyền của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không xác định quyền này, nội dung của quyền này chỉ được thể hiện một phần thông qua quy định về người bảo vệ quyền lợi của đương sự tại khoản 1 Điều 59[16] nhưng vẫn không phản ánh đầy đủ phạm vi của quyền được tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ, đặc biệt là tinh thần, tính chất tranh tụng trong việc thực hiện quyền của đương sự. BLTTHS năm 2015 với sự chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung trong các chế định luôn thể hiện tinh thần nâng cao quyền con người, quyền công dân, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp theo hướng tăng cường tranh tụng, bảo đảm quyền bào chữa của người buộc tội, quyền được tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ lợi ích của các chủ thể tham gia tố tụng khác. Đương sự là các chủ thể tham gia tố tụng hình sự, họ có lợi ích liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự. Để bảo đảm sự dân chủ, công bằng, khách quan, nâng cao vai trò, vị thế của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm quyền được tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Theo đó, nguyên đơn dân sự có quyền đưa ra những chứng cứ, tài liệu và bằng lý lẽ của mình để chứng minh cho yêu cầu của mình là chính đáng, có căn cứ và hợp pháp. Bị đơn dân sự cũng có quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu và bằng lý lẽ của mình để phủ nhận, bác bỏ những cáo buộc, những yêu cầu của nguyên đơn. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền chứng minh những lợi ích của mình cần phải được tôn trọng và bảo vệ. Nếu như đương sự không đủ tự tin để tự bảo vệ quyền lợi của mình, họ có quyền nhờ người có chuyên môn mà họ tin tưởng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Người có chuyên môn có thể bảo vệ quyền lợi của họ là luật sự, người đại diện, bào chữa viên nhân dân, trợ giúp viên pháp lý.[17] Có thể nói đây là quyền cơ bản, là cơ sở để thực hiện các quyền khác như quyền tham gia phiên tòa, trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi người tham gia phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa… Chúng tôi cho rằng nếu các đương sự được thực hiện đầy đủ các quyền này, tính chất tranh tụng tại phiên tòa sẽ được tăng lên đáng kể. Điều này không chỉ hiệu quả đối với với việc giải quyết các quan hệ dân sự phát sinh trong vụ án hình sự mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định sự thật của vụ án hình sự, góp phần giải quyết vụ án được toàn diện và triệt để. – Quyền được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ mà pháp luật TTHS quy định cho họ[18] Địa vị pháp lý của đương sự trong TTHS được thể hiện thông qua các quyền và nghĩa vụ được BLTTHS năm 2015 quy định. BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ cho đương sự. Điểm mới này bảo đảm các quyền và nghĩa vụ của đương sự được thực thi và là cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ. Chính vì tầm quan trọng này, ngoài quy định cụ thể ở Điều 63, 64, và 65, BLTTHS năm 2015 còn quy định một nguyên tắc quan trọng là bảo vệ quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự. Theo nội dung nguyên tắc này, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, cho bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền mà BLTTHS năm 2015 quy định.[19] Mặc dù đây chỉ là quyền mang tính chất hình thức tố tụng nhưng lại là cơ sở để triển khai các quyền khác. Nếu đương sự không nắm được và hiểu rõ về các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, họ không thể tham gia tố tụng hình sự một cách chủ động để tự bảo vệ quyền lợi của họ, họ cũng không thể tham gia tranh tụng trong xét xử vụ án để làm rõ sự thật khách quan, họ không thể tự chứng minh tính hợp lý cho yêu cầu của họ. Qua việc bổ sung quyền được thông báo và giải thích về quyền và nghĩa vụ, các đương sự trong vụ án hình sự đã được đối xử bình đẳng với các chủ thể tham gia tố tụng khác. Trước đây chỉ có bị can, bị cáo và bị hại mới có quy định được thông báo và giải thích về quyền và nghĩa vụ. – Bị đơn có quyền chấp nhận hoặc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn dân sự Đây là một quyền cụ thể được bổ sung riêng cho bị đơn dân sự. BLTTHS năm 2015 quy định quyền này thay thế cho quyền khiếu nại việc đòi bồi thường của nguyên đơn dân sự trong Điều 53 BLTTHS năm 2003. Việc quy định quyền chấp nhận hoặc bác bỏ yêu cầu thể hiện đúng bản chất và vai trò tố tụng của bị đơn. Nguyên đơn dân sự tham gia tố tụng với mục đích để được bồi thường thiệt hại. Vì vậy, họ đưa ra yêu cầu bị can, bị cáo hoặc bị đơn dân sự phải bồi thường, đồng thời đưa ra mức bồi thường cụ thể. Bị đơn dân sự tham gia tố tụng hình sự để xác định trách nhiệm bồi thường của mình, bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Nếu thấy việc yêu cầu của nguyên đơn là hợp lý thì bị đơn có thể chấp nhận, nếu thấy việc yêu cầu bồi thường là không có cơ sở, mức bồi thường không có căn cứ hoặc vượt quá so với thiệt hại thực tế thì bị đơn dân sự có quyền bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chỉnh lý phân định cụ thể các nghĩa vụ của đương sự trong vụ án hình sự Trên cơ sở kế thừa các quy định về yêu cầu đặt ra đối với đương sự trong BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã cụ thể hóa những nghĩa vụ của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Theo đó, họ có ba nghĩa vụ cơ bản là i có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, ii trình bày trung thực những tình tiết liên quan đến việc bồi thường thiệt hại, liên quan đến quyền và nghĩa vụ của họ, iii chấp hành các quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Với việc quy định rõ ràng, cụ thể các nghĩa vụ của đương sự, BLTTHS năm 2015 đã xây dựng cơ sở pháp lý nhằm bảo đảm sự thông suốt trong tiến trình tố tụng ngay cả khi nội dung của vụ án hình sự có những vấn đề dân sự không thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Các đương sự có các quyền mà pháp luật tố tụng quy định để bảo vệ lợi ích chính đáng nhưng đồng thời họ cũng có nghĩa vụ và phải thực hiện các nghĩa vụ đó, nếu không tiến trình tố tụng có thể bị cản trở, việc xử lý vụ án bị kéo dài, tính khách quan bị ảnh hưởng… Xem thêm bài viết về “Điểm mới của Luật” Một số điểm mới của Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 – TS. Nguyễn Mạnh Hùng & ThS. Trương Thị Minh Thùy Một số điểm mới của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 – ThS. Dương Hồng Thị Phi Phi Những điểm mới của chương “Chính phủ” trong Hiến pháp 2013 – TS. Nguyễn Mạnh Hùng Những quy định mới của Hiến pháp 2013 về quyền bào chữa và việc hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 – TS. Lương Thị Mỹ Quỳnh Những điểm mới cơ bản của Hiến pháp nước CHXHCH Việt Nam 2013 – Trương Đắc Linh & TS. Nguyễn Mạnh Hùng 3. Một số yêu cầu trong thực tiễn áp dụng một số điểm mới về bị hại, đương sự trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 Sự chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2015 trong quy định về bị hại, đương sự theo hướng mở rộng quyền và cụ thể hóa các nghĩa vụ của bị hại, các đương sự là tiến bộ và phù hợp với mục tiêu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích hợp pháp của tổ chức. Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, khi có sự tham gia của bị hại và đương sự thì tất yếu sẽ có những vấn đề dân sự phát sinh cần phải giải quyết. Đó là việc bồi thường những thiệt hại do hành vi phạm tội trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra, là việc hoàn trả lại tài sản bị chiếm đoạt, là việc sửa chữa, khắc phục tài sản bị hư hỏng… Những điểm mới về bị hại và đương sự trong BLTTHS năm 2015 chính là sự hoàn thiện về cơ sở pháp lý để giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Xuất phát từ các quyền và nghĩa vụ được quy định tương đối đầy đủ, bị hại và các đương sự có quyền đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng bảo đảm các quyền đó phải được thực thi trong giải quyết vụ án hình sự để bảo đảm những lợi ích dân sự của họ. Tuy nhiên, theo chúng tôi để bảo đảm tính khả thi trong quá trình áp dụng quy định của luật TTHS về bảo vệ quyền của bị hại, đương sự thì cần phải có văn bản hướng dẫn, giải thích rõ một số quyền cơ bản sau đây + Đối với quyền đưa ra mức bồi thường, các biện pháp bảo đảm việc bồi thường của bị hại và nguyên đơn dân sự cần phải được hướng dẫn theo hướngmở rộng quyền và cụ thể hóa các biện pháp bảo đảm việc bồi thường. Quyền đưa ra mức bồi thường phải bao gồm các quyền được đưa ra một định mức cụ thể về tài sản được bồi thường, quyền yêu cầu về hình thức, phương thức bồi thường, quyền xác định các loại thiệt hại được bồi thường. Mặt khác, thực tế cho thấy bị hại và nguyên đơn dân sự ít khi yêu cầu áp dụng các biện pháp bảo đảm việc bồi thường. Điều này xuất phát từ việc bị hại, nguyên đơn dân sự không nắm được quy định của pháp luật về các biện pháp bảo đảm việc bồi thường, chưa có hướng dẫn cụ thể về các biện pháp này. Trong Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định về các biện pháp bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ nhưng những biện pháp này chỉ phù hợp với quan hệ hợp đồng, còn việc bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự là bồi thường ngoài hợp đồng.[20] Vậy các biện pháp bảo đảm sẽ mang tính chất khác, đó là xác định được tài sản của người đã gây ra thiệt hại và cần có các biện pháp để những tài sản đó sẽ được dùng để bồi thường cho người bị hại như phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, kê biên tài sản, hạn chế hoặc cấm việc chuyển nhượng tài sản trong một thời gian nhất định… Vì vậy, theo chúng tôi các biện pháp mang tính đặc thù nói trên phải được hướng dẫn, thể chế hóa thành quyền của người bị hại, nguyên đơn dân sự để họ có cơ sở đề xuất với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Ngoài ra, đối với những thiệt hại vể uy tín do hành vi phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra cho cơ quan, tổ chức, hiện nay chưa có căn cứ để xác định, vì vậy cũng cần phải có hướng dẫn cụ thể đối với thiệt hại về uy tín của cơ quan, tổ chức theo hướng đưa ra căn cứ xác định thiệt hại về uy tín, hình thức xâm hại đến uy tín, mức độ thiệt hại về uy tín, phương thức bồi thường và khắc phục hậu quả thiệt hại về uy tín. Quyền được bồi thường là quyền cơ bản nhất và quan trọng nhất của bị hại, nguyên đơn dân sự, bởi vì quyền này đáp ứng được mục đích, nhu cầu của họ khi tham gia tố tụng hình sự. Điều này đặt ra yêu cầu cần phải được hướng dẫn cụ thể hóa mới bảo đảm tính khả thi khi áp dụng các quy định của BLTTHS năm 2015 về quyền được bồi thường của bị hại và của nguyên đơn dân sự. + Đối với quyền được tham gia các hoạt động tố tụng và quyền yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của của bị hại Đây là những quyền mới của bị hại, thể hiện vị trí và vai trò của bị hại được chủ động bảo vệ kịp thời quyền lợi của mình và sự an toàn của bản thân trong quá trình tham gia tố tụng. Tuy nhiên, việc áp dụng quyền này trên thực tế sẽ rất khó khăn nếu không có hướng dẫn cụ thể bởi vì trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự có rất nhiều hoạt động tố tụng, trong đó có các hoạt động đặc thù mang tính chuyên môn, thậm chí là có những hoạt động mang tính bí mật chưa thể công khai để bảo đảm hiệu quả tố tụng. Mặt khác, có những hoạt động tố tụng, bị hại tham gia là cần thiết nhưng cũng có những hoạt động tố tụng bị hại không cần thiết phải tham gia. Vì vậy, chúng tôi thấy cần có quy phạm hướng dẫn quyền này cụ thể theo hướng trong từng giai đoạn tố tụng bị hại được tham gia vào những hoạt động tố tụng cụ thể nào, mức độ tham gia, hình thức tham gia và trách nhiệm nếu cản trở hoạt động tố tụng khi tham gia. Về quyền yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích khi bị đe dọa, để áp dụng cần phải làm rõ các vấn đề sau tính chất nguy hiểm của sự đe dọa đến mức độ nào thì cần có sự bảo vệ của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nào phải bảo vệ; cách thức bảo vệ như thế nào, bảo vệ về tài sản cần phải phối hợp với cơ quan, tổ chức nào. + Những vấn đề dân sự nảy sinh trong vụ án hình sự luôn mang bản chất của quan hệ dân sự. Vì vậy, chúng tôi cho rằng các chủ thể của quan hệ đó là bị hại, các đương sự có một quyền rất quan trọng và đặc thù là quyền được thỏa thuận, tự định đoạt để giải quyết việc bồi thường, việc hoàn trả tài sản. Tuy BLTTHS năm 2015 không cụ thể hóa quyền này nhưng theo chúng tôi, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thể vận dụng quy định “các quyền khác theo quy định của pháp luật”[21] để hướng dẫn bị hại, các đương sự thực hiện quyền này một cách hiệu quả nhất. – Đối với nghĩa vụ của đương sự, chúng tôi cho rằng việc quy định theo hướng phân định rõ ràng cụ thể từng nghĩa vụ là hợp lý. Tuy nhiên, việc chỉ quy định nghĩa vụ nhưng không gắn trách nhiệm cụ thể của đương sự khi không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ sẽ dẫn đến việc bảo đảm sự tuân thủ nghĩa vụ của đương sự trong vụ án hình sự trở nên khó khăn. Vì vậy, nên chăng cũng cần quy định thêm các chế tài khi đương sự không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ và gây khó khăn, trở ngại cho cơ quan tiến hành tố tụng. Bị hại, đương sự là những chủ thể tham gia tố tụng hình sự, việc tham gia tố tụng của họ là nhằm bảo vệ, khôi phục những quyền và lợi ích hợp pháp của họ, đồng thời là nhân tố góp phần quan trọng trong việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và xác định sự thật khách quan của vụ án. Sự chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung của BLTTHS năm 2015 trong quy định về bị hại, đương sự đã thể hiện tinh thần bảo đảm nâng cao quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự, phù hợp với tinh thần của Hiến pháp năm 2013, là cơ sở pháp lý để giải quyết toàn diện vụ án hình sự, nhất là giải quyết vấn đề dân sự phát sinh trong vụ án hình sự./. Xem thêm bài viết về “Bộ luật Tố tụng hình sự 2015” Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi trên cơ sở hướng dẫn của Liên hợp quốc về tư pháp phục hồi – TS. Lê Huỳnh Tấn Duy Thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – ThS. LS. Phạm Quang Thanh Phân tích các quyền và nghĩa vụ của Người bào chữa theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – ThS. LS. Phạm Quang Thanh Lựa chọn người bào chữa theo quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – ThS. LS. Phạm Quang Thanh Những nội dung mới của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về bảo vệ quyền con người và quyền công dân trong tố tụng hình sự – TS. Hoàng Anh Tuyên CHÚ THÍCH * TS. Luật học, Trưởng Khoa Luật Hình sự, Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh. ** ThS. Luật học, P. Trưởng Bộ môn NVCB – Trường ĐH Cảnh sát nhân dân. [1] Vũ Gia Lâm, “Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Luật họcsố 11/2011, tr. 29. [2] Lê Nguyên Thanh, “Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự Việt Nam” Luận án tiến sĩ luật học, Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, 2012, tr. 27. [3] Khoản 1 Điều 62 BLTTHS năm 2015. [4] Xem Điều 86 BLTTHS năm 2015. [5] Điểm g, khoản 2 Điều 62 BLTTHS năm 2015. [6] Khoản 1 Điều 155 BLTTHS năm 2015 và khoản 1 Điều 133 BLTTHS năm 2003. [7] Xem khoản 4 Điều 62 BLTTHS năm 2015. [8] Điểm g, khoản 1, Điều 4 BLTTHS năm 2015. [9] Điều 59 BLTTHS năm 2003 “Người bảo vệ quyền lợi của đương sự Khoản 1. Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự có quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án nhân dân chấp nhận bảo vệ quyền lợi cho mình”. [10] Điều 68 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 “Đương sự là cơ quan tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”. [11] Xem khoản 1 Điều 52 BLTTHS năm 2003 và khoản 1 Điều 63 BLTTHS năm 2015. [12] Vũ Mạnh Thông, Nguyễn Ngọc Điệp, Bình luận bộ luật tố tụng hình sự,Nxb. Lao động- Xã hội, Hà Nội, 2009, tr. 64. [13] Phan Thanh Tùng, Một số vấn đề về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự [ Truy cập ngày 06/06/2016 [14] Xem Điểm đ, khoản 2 Điều 63; điểm đ, khoản 2 Điều 64 và điểm c khoản 2 Điều 65 BLTTHS năm 2015. [15] Xem điểm i, khoản 2 Điều 63 và điểm i khoản 2 Điều 64 BLTTHS năm 2015. [16] Khoản 1 Điều 59 BLTTHS năm 2003 quy định “Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác được Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án chấp nhận bảo vệ quyền lợi cho mình”. [17] Xem khoản 2 Điều 84 BLTTHS năm 2015. [18] Xem điểm a, khoản 2, Điều 63 và điểm a, khoản 2, Điều 64 BLTTHS năm 2015. [19] Điều 16 BLTTHS quy định “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họtheo quy định của Bộ luật này”. [20] Khoản 1 Điều 381 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định“Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bao gồm Cầm cố tài sản; thế chấp tài sản; đặt cọc; ký cược; ký quỹ; bảo lãnh; tín chấp”. [21] Điểm o, khoản 2 Điều 62; điểm m, khoản 2 Điều 63; điểm m, khoản 2 Điều 64 và điểm i khoản 2 Điều 65 BLTTHS năm 2015. Tác giả TS. Võ Thị Kim Oanh & ThS. Ngô Quang Cảnh Nguồn Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 09103/2016 – 2016, Trang 66-73 Nguồn Fanpage Luật sư Online